20 thg 3, 2013

Một số bài thuốc dân gian chữa xơ gan cổ chướng

Những di chứng do sốt rét , hay do tác hại của rượu để lại, và kiến thức về vệ sinh an toàn thực phẩm của người dân còn hạn chế, cộng với lâm sơn chướng khí, nên có một số người bị chứng xơ gan cổ chướng, một trong tứ chứng nan y. Xin sưu tầm, giới thiệu một vài bài thuốc dân gian trị bệnh này như sau:

Dược liệu:

- Cây chó đẻ răng cưa còn gọi diệp hạ châu. Cả cây dược liệu khô 100g (tươi 300g).

- Quả dứa dại tách ra từng múi dùng khô 100g, dùng tươi 300g.

- Cây mã đề, dùng tươi 50g.

- Củ tam thất, xay thành bột mịn 6g/ngày chia làm 3 lần.

Cách dùng: Sắc 3 vị thuốc đầu với 2 lít nước còn 1/2 lít. Chia làm 3 lần hòa với bột tam thất 2g mỗi lần - ban ngày uống 2 lần, ban đêm uống 1 lần. Uống liên tục một ngày một thang trong vòng 30 ngày.

Ngày thứ 31 có thể bỏ vị mã đề nếu bụng mềm, đi tiểu bình thường, và giảm vị tam thất còn 3g/ngày chia 3 lần hòa thuốc uống.


Liệu trình điều trị 6 tháng (theo kinh nghiệm). chữa xơ gan cổ chướng giai đoạn cuối

- Điều trị 15 ngày: Bệnh nhân thấy người nhẹ nhõm, ăn ngủ được, đi lại trong nhà.

- Điều trị 30 ngày: Bụng mềm, nhỏ lại, bệnh nhân khỏe, tự giải quyết mọi sinh hoạt cá nhân.

- Điều trị 3 tháng: Bệnh nhân hoàn toàn khỏe, gan, lách mềm, nhỏ nhưng siêu âm thấy gan còn thô (còn xơ gan).

Tháng thứ 4 vẫn uống 3 vị trên (dứa dại, diệp hạ châu và tam thất).

Tháng thứ 5 và 6 uống 1 tuần 2 thang gồm 2 vị (dứa dại, diệp hạ châu).

Sau 6 tháng điều trị bệnh nhân khỏe đạt 80-90%, lao động bình thường.

Ghi chú: Nếu bụng trướng nước, gan cứng to gây khó thở thì trục nước ra bằng một trong các cách sau:

Bài 1: Rễ cỏ tranh khô 70g (tươi 210g), vỏ quả cau (đại phúc bì) 3 vỏ, hạt mã đề (xa tiền tử) 30g, đậu đen sao vàng 50g. Cho nước 1.000ml sắc còn 300ml chia 2 lần uống trong ngày.

Bài 2: Nếu đã uống bài 1 từ 1-2 thang bệnh nhân vẫn khó thở, bụng vẫn trướng nước thì uống bài 2.

- Vị thuốc: Lá nhót tươi 100g + lá cây cà phê, chè tươi 100g. Nước 600ml sắc còn 200ml uống hết một lần khi nước còn ấm.

- Sau khi uống từ 1-2 giờ bệnh nhân đi tiểu 7-8 lần/ngày (lượng nước tiểu từ 8-9 lít).

- Cầm đi tiểu: Cho uống nước sắc hạt đậu xanh còn nguyên vỏ. Đậu xanh 150g nước 400ml sắc còn 150ml để thật nguội. Khi bệnh nhân đi tiểu được 7-8 lít thì cho bệnh nhân uống.

- Khi cần đến bài trục nước thứ 2 này thì dừng uống thuốc trị bệnh một ngày.

18 thg 3, 2013

Bệnh truyền nhiễm thủy đậu


Thủy đậu là một bệnh truyền nhiễm rất dễ lây

Có khả năng phát triển thành dịch bệnh, do một loại siêu vi trùng gây ra, có tên gọi là Varicella-Zoster Virus. Bệnh có thể phát ở khắp nơi, nhưng thường gặp nhất ở những nơi đông dân cư, nhà trẻ, trường mẫu giáo…

Bệnh không loại trừ một ai, nhưng thường gặp nhất ở trẻ con. Những năm gần đây, người lớn mắc bệnh thuỷ đậu nhiều hơn trước. Bệnh lây chủ yếu qua đường hô hấp, bằng những giọt nước bọt bắn ra từ người bệnh, một số ít lây qua do tiếp xúc trực tiếp với bóng nước. Thời gian lây bệnh bắt đầu 24 giờ trước khi có phát ban và kéo dài cho đến những nốt đậu đóng mài (trung bình 7- 8 ngày).

bệnh truyền nhiễm thủy đậu

Biểu hiện của bệnh thủy đậu như thế nào?

Khi bị nhiễm siêu vi gây bệnh, bệnh được biểu hiện qua nhiều giai đoạn:
  -  Giai đoạn ủ bệnh: Đây là giai đoạn cơ thể đã bị xâm nhập bởi tác nhân gây bệnh, nhưng chưa có biểu hiện các triệu chứng bệnh lý. Thời kỳ này kéo dài trung bình từ 13 -17 ngày.

  -  Giai đoạn khởi phát: Người bệnh có thể sốt nhẹ, chán ăn, mệt mỏi, nhức đầu… Một số trường hợp có thể phát ban tạm thời, với những nốt hồng ban, kích thước vài mm, nổi trên nền da bình thường. Đây là tiền thân của những nốt đậu sau đó.

  -  Giai đoạn toàn phát: Đây là thời kỳ đậu mọc. Trong giai đoạn này, trên da xuất hiện những bóng nước hình tròn hay hình giọt nước trên viền da màu hồng. Bóng nước có đường kính từ 3-10 mm. Đầu tiên xuất hiện ở thân mình, sau đó lan đến mặt và tứ chi. Bóng nước lúc đầu chứa dịch trong, sau có thể hóa đục. Chúng mọc nhiều đợt trên một vùng da, nên ta có thể thấy tổn thương ở nhiều lứa tuổi khác nhau. Từ hình ảnh phát ban, bóng nước chứa dịch trong, bóng nước chứa dịch đục, cho đến các tổn thương đã đóng mài.
Ngoài ra, các bóng nước có thể xuất hiện ở niêm mạc miệng, đường tiêu hóa, hô hấp hoặc tiết niệu, thậm chí ở bộ phận sinh dục, gây ra các triệu chứng buốt đau, dấu hiệu loét đường tiêu hóa, khó thở, tiểu rát… Một số trường hợp khác, các bóng nước có thể xuất hiện ở mi mắt hoặc kết mạc mắt. Trong giai đoạn này bệnh nhân có thể có sốt, ngứa ở nhiều mức độ khác nhau. Bóng nước càng nhiều thì bệnh càng nặng. Trẻ nhỏ thường nhẹ hơn trẻ lớn.

  -  Giai đoạn hồi phục: Sau một tuần, hầu hết các bóng nước đóng mài. Bệnh chuyển sang giai đoạn hồi phục.

Bệnh thủy đậu có thể để lại các biến chứng gì?
Chính vì bệnh thường gây các tổn thương xuất hiện trên da, nên tình trạng bội nhiễm là biến chứng thường gặp nhất của bệnh thủy đậu. Biến chứng này xảy ra do các nốt đậu bị vỡ hoặc da bị trầy xước do bệnh nhân gãi, hay do các tổn thương không được chăm sóc đúng qui cách.

Biến chứng thứ hai là viêm phổi thủy đậu, có thể gặp ở người lớn và những người suy giảm miễn dịch. Đây là biến chứng nguy hiểm, có thể xảy ra trong thời kỳ đậu mọc với các biểu hiện sốt cao, thở nhanh, khó thở, tím tái, đau ngực, ho ra máu. Trên X quang sẽ thấy hình ảnh tẩm nhuận dạng nốt và viêm phổi mô kẽ.

Biến chứng thứ ba là hội chứng Reye: Trong giai đoạn đậu mọc nếu cho trẻ uống Aspirin để hạ sốt hoặc giảm đau, trẻ có thể bị hội chứng Reye. Hội chứng này xuất hiện ở giai đoạn hồi phục của bệnh với triệu chứng bồn chồn, lo âu, kích thích. Trong trường hợp nặng có thể diễn tiến đến hôn mê, co giật do phù não.

Dị tật bẩm sinh là biến chứng thứ tư được đề cập đến. Trẻ em có mẹ bị bệnh trong 3 tháng cuối thai kỳ, sau sinh sẽ có thể bị dị tật bẩm sinh với hình ảnh sẹo da, teo cơ, bất thường ở mắt, co giật, chậm phát triển tâm thần…

Viêm não thủy đậu cũng là biến chứng có thể gặp trong bệnh thủy đậu. Biến chứng này có thể gặp trong thời kỳ ủ bệnh, trong giai đoạn nổi bóng nước hoặc trong giai đoạn hồi phục. Biểu hiện thường gặp là rung giật nhãn cầu, đôi khi có thể kèm theo co giật hoặc hôn mê.

Phòng trị bệnh như thế nào?
Mục đích điều trị của bệnh thủy đậu ở những người có hệ thống miễn dịch bình thường là để giảm nguy cơ gây biến chứng.

Việc điều trị bao gồm: Chăm sóc tại chỗ các bóng nước trên da bằng các dung dịch sát khuẩn, chống nhiễm trùng như dung dịch Methylene Blue, Milian… và các thuốc điều trị triệu chứng chống ngứa, kháng sinh chống bội nhiễm và thuốc chống siêu vi trùng (Acyclovir là thuốc được xem có hiệu quả chống siêu vi gây nên bệnh thủy đậu. Thuốc có khả năng rút ngắn thời gian tạo bóng nước, làm giảm tổn thương da mới và các triệu chứng của bệnh). Việc điều trị cần được thực hiện dưới sự kiểm soát của thầy thuốc chuyên khoa.

Về phòng ngừa, có một số biện pháp được đặt ra: Khi phát hiện bệnh, người bệnh cần được cách ly cho đến lúc các nốt đậu đóng mài. Tuy nhiên, hiệu quả hạn chế, do bệnh có thể lây từ 24-48 giờ trước khi xuất hiện các bóng nước trên da. Bên cạnh đó, chủng ngừa là biện pháp có ý nghĩa tích cực trong phòng bệnh, nhằm tạo khả năng miễn dịch khống chế tác nhân gây bệnh.

Xem thêm: điều trị ung thư gan | chua benh xo gan | xơ gan cổ chướng | chữa xơ gan cổ chướng giai đoạn cuối

15 thg 3, 2013

Thuốc nam trị dứt điểm bệnh gan

thuoc tri benh gan khỏi dứt điểm của thầy thuốc Dư Ba tại tỉnh Thanh Hóa

Dấu hiệu nhận biết:

Bệnh gan thật sự rất nguy hiểm và bạn nên theo dõi cơ thể để phát hiện ra những dấu hiệu nhỏ nhất, dễ dàng được thấy từ bên ngoài. Da có dấu hiệu đổi màu. Màu mắt và nước tiểu đều có màu vàng đục, đậm. Việc này gọi là hiện tượng vàng da và nó được coi như dấu hiệu đầu tiên của bệnh gan.

Nếu bạn thường xuyên bị chảy máu mũi và cơ thể dễ bầm tím, bạn có thể thiếu protein hoặc tệ hơn là bệnh gan.

Màu của phân thay đổi cũng là dấu hiệu của rối loạn chức năng gan. Người mắc bệnh gan cũng thường xuyên cảm thấy quặn ruột và đi tiêu đột xuất.

Có những dấu hiệu lạ ở vùng bụng. Ví dụ như sưng dưới xương sườn bên phải là dấu hiệu chung của bệnh nhân gan. Nó có thể gây áp lực nặng nề lên cơ hoành và khiến bạn đau khi thở.

Chế độ ăn uống thay đổi. Người bị gan sẽ cảm thấy kém ăn dẫn tới giảm cân, rối loạn chức năng gan, thiếu máu và hay có cảm giác buồn nôn.

Màu sắc và hình dạng móng tay cũng có thể chỉ ra bạn có mắc bệnh gan hay không. Nếu móng tay cong, màu trắng có nghĩa là bạn có nguy cơ mắc bệnh gan. Chứng khát nước thường xuyên và thường xuyên đi tiểu cũng xuất hiện ở người bị gan. Người bị gan thường cảm thấy đau đầu, chóng mặt, co thắt, trầm cảm dễ cáu gắt.

Những dấu hiệu trên là những dấu hiệu rất dễ nhận biết bên ngoài và bằng mắt thường.

Vậy điều trị bệnh gan bằng cách nào? 
Có nhất thiết phải dùng thuốc Tây hay những phương pháp hiện đại, đắt tiền

Sau bao thế hệ lưu truyền và giữ gìn. Gia đình thầy thuốc Dư Ba đã chữa thành công các loại bệnh về gan như: Xơ gan cổ chướng, viêm gan B, gan nhiễm mỡ, tăng men gan, suy yếu chức năng gan... đặc biệt là hoàn toàn dùng bằng thuốc Nam.

Khuyến cáo cho bệnh nhân là: Khi đã mắc bệnh xơ gan cổ chướng bụng rất to, tuyệt đối không được dùng lợi tiểu các dạng, không được hút dịch. Khi tình trạng bệnh nguy kịch và tỷ lệ dẫn tới tử vong cao, thầy thuốc Dư Ba vẫn có thể chữa được với những bài thuốc Nam gia truyền.

Đã từ lâu đây là địa chỉ tin cậy của bà con xa gần và ngoại tỉnh, không gì ngoài mục đích cứu bệnh bằng khả năng được thừa hưởng, thầy thuốc Dư Ba đau đáu một điều là "phải làm sao đem sức lực và sự tâm huyết của mình để cứu lấy những nạn nhân bị bệnh gan không những ở tỉnh nhà mà còn những bà con không may mắc bệnh ở những tỉnh khác".

Phẫu thuật thành công cho bệnh nhân ung thư gan

điều trị ung thư gan biểu mô tế bào

Hơn 30 bệnh nhân bị ung thư biểu mô tế bào gan không còn chỉ định phẫu thuật đã được các bác sĩ Bộ môn – Khoa Nội tiêu hóa (A3) Bệnh viện TWQĐ 108 can thiệp thành công kỹ thuật hóa tắc mạch với hạt vi cầu điều trị ung thư biểu mô tế bào gan (UTBMTBG). Đây là một phương pháp điều trị UTBMTBG mới được thực hiện và công bố gần đây tại các nước Âu Mỹ và lần đầu tiên đưa vào ứng dụng ở nước ta.

Ghi nhận từ ca bệnh đầu tiên
Bác Võ Văn Đ., 70 tuổi (Hà Nội) không giấu nổi vui mừng khi biết mình đã được các bác sĩ Bộ môn - Khoa nội Tiêu hóa (A3), Bệnh viện TWQĐ 108 can thiệp thành công kỹ thuật mới điều trị UTBMTBG cho mình, đây là khối u có kích thước gần 8cm sau điều trị bằng kỹ thuật hóa tắc mạch vi cầu đã nhỏ đi chỉ còn 3cm. Theo lời kể của bệnh nhân, ông có tiền sử viêm gan B mạn, được phát hiện và chẩn đoán UTBMTBG từ năm 2004. Ông đã được điều trị bằng phương pháp tiêm ethanol qua da và bệnh ổn định 7 năm nay.

Tuy vậy, trong lần kiểm tra sức khỏe định kỳ năm 2011, bác sĩ phát hiện ông có khối u gan tái phát với kích thước 8cm ở hạ phân thùy IV, tăng sinh mạch mạnh. Đối với căn bệnh UTBMTBG, để điều trị cho người bệnh đòi hỏi phải được phát hiện sớm và phương pháp phẫu thuật cắt bỏ khối u vẫn là hiệu quả nhất. Khi bệnh nhân đã có triệu chứng lâm sàng như đau vùng gan hoặc gày sút cân nhanh thì đây thường là giai đoạn bệnh tiến triển và phương pháp điều trị tạm thời cơ bản là hóa tắc mạch qua đường động mạch hay còn gọi là phương pháp hóa tắc mạch truyền thống.

Tuy nhiên, từ thực tiễn 10 năm nghiên cứu điều trị bệnh UBMTBG bằng phương pháp này, PGS.TS. Mai Hồng Bàng - Phó Giám đốc Bệnh viện, chủ nhiệm Bộ môn Nội tiêu hóa - chủ trì việc triển khai kỹ thuật hóa tắc mạch tại BV cho biết: “Phương pháp hóa tắc mạch truyền thống có những hạn chế nhất định, đó là tỷ lệ hoại tử hoàn toàn khối u thấp, tác dụng phụ và biến chứng sau điều trị khá nặng nề và để giữ vững kết quả thì phải điều trị nhắc lại nhiều lần. Vì thế, chúng tôi quyết tâm ứng dụng những kỹ thuật hóa tắc mạch mới được thực hiện và công bố gần đây tại các nước Âu Mỹ, đó là kỹ thuật hóa tắc mạch với hạt vi cầu để điều trị bệnh UTBMTG – một bệnh đang rất phổ biến tại Việt Nam”.



Ngày 3/6/2011, bệnh nhân Đ. đã được chỉ định điều trị UTBMTBG bằng phương pháp hóa tắc mạch với hạt vi cầu DC Beads (DCB). Sử dụng hạt DCB với 2 loại kích cỡ: 1ml loại hạt đường kính 100 - 300 micromet và 1ml loại hạt đường kính 500 - 700 micromet. Mỗi loại kích cỡ hạt được tải với 37,5mg doxorubicin (hóa chất chống ung thư). Thời gian tải 60 phút cho loại kích cỡ nhỏ và 90 phút cho loại kích cỡ lớn… Sau can thiệp, bệnh nhân chỉ nằm viện 5 ngày và xuất viện trong tình trạng sức khỏe tốt, ăn ngủ bình thường, không sốt, hết đau vùng gan, men gan gần như bình thường và hiện nay vẫn có thể chơi thể thao hàng ngày. Đây là bệnh nhân đầu tiên được can thiệp bằng phương pháp này và đáp ứng điều trị tốt.

Chi phí cho một ca điều trị hoá tắc mạch bằng vi cầu khoảng 45 – 50 triệu đồng, tuy nhiên cũng kỹ thuật này ở một số nước trong khu vực như Singapore, Thái Lan…thì người bệnh sẽ phải chi phí hơn thế nhiều lần.

Đến nay, Bộ môn – Khoa nội tiêu hóa, Bệnh viện TWQĐ 108 đã thực hiện thành công kỹ thuật hóa tắc mạch với hạt vi cầu cho hơn 30 bệnh nhân UTBMTBG và diễn biến tình trạng bệnh của đa số các bệnh nhân đều tốt. Những bệnh nhân đáp ứng tốt với phương pháp điều trị này đều có kích thước khối u đã được thu nhỏ so với trước khi điều trị.

Kỹ thuật hóa tắc mạch vi cầu không chỉ được áp dụng cho bệnh nhân bị UTBMTBG không còn chỉ định phẫu thuật và từ chối phẫu thuật mà còn được chỉ định điều trị cho bệnh nhân ung thư gan thứ phát, ung thư đường mật trong gan và các khối u tăng sinh mạch ở gan khác..
Khắc phục nhược điểm của kỹ thuật hóa tắc mạchtruyền thống


Về phương pháp điều trị mới này, TS. Nguyễn Tiến Thịnh – người trực tiếp thực hiện kỹ thuật và theo dõi điều trị cho biết: “Hóa tắc mạch với hạt vi cầu là một kỹ thuật hóa tắc mạch mới, khắc phục được những nhược điểm chính của kỹ thuật hóa tắc mạch truyền thống nhờ sử dụng tác nhân tắc mạch cũng đồng thời là chất mang và phóng thích thuốc một cách bền vững - đó là các hạt vi cầu DCB”.

Hiện nay, điều trị ung thư gan tại một số nước châu Âu và châu Á đã công nhận kỹ thuật hóa tắc mạch vi cầu là phương pháp ưu việt, hiệu quả cao và có khoảng trên 30% số bệnh nhân UTBMTBG được điều trị theo phương pháp này.
Hạt vi cầu DCB là hạt hình cầu, có tính mềm, đàn hồi được bảo quản dưới dạng dung dịch phosphat, cho phép duy trì nồng độ thuốc ổn định trong khối u, đồng thời giảm nồng độ thuốc khuếch tán ra tuần hoàn ngoại vi. Hạt DCB là một dạng hạt vi cầu được thiết kế đặc hiệu cho kỹ thuật hóa tắc mạch, có thể được chuyển tải cùng với hóa chất chống ung thư như doxorubicin. Sự gắn kết và phóng thích hóa chất được thực hiện theo cơ chế trao đổi ion: hạt DCB mang điện tích âm còn hóa chất chống ung thư mang điện tích dương nên khi trộn lẫn với nhau chúng sẽ được gắn kết chặt chẽ.

Khi đưa vào trong khối u (môi trường plasma giàu điện tích dương) thì hóa chất được phóng thích từ từ theo cơ chế cạnh tranh trao đổi ion. Chính vì thế, hóa chất trong khối u được duy trì ở nồng độ cao và kéo dài tới 14 ngày sau điều trị can thiệp. Như vậy, khi nồng độ hóa chất trong khối u càng cao và kéo dài thì khả năng diệt tế bào ung thư càng chắc chắn và mạnh mẽ. Bản thân hạt DCB với những kích cỡ khác nhau từ 100 – 900 micromet sẽ gây ra hiện tượng tắc động mạch nuôi khối u.

Các hạt DCB kích thước nhỏ gây tắc vi tuần hoàn khối u và những hạt DCB lớn hơn gây tắc tiểu động mạch và những nhánh động mạch nhỏ nuôi u gây hiện tượng thiếu máu u nặng nề, hậu quả khối u bị bỏ đói và chết. Tính ưu việt của hạt vi cầu có tác dụng làm giảm số lần điều trị nhắc lại, giảm số lần nhập viện, giảm ngày nằm điều trị, hạn chế tác dụng phụ do hóa chất chống ung thư gây ra. Người bệnh sau can thiệp bằng phương pháp này có thời gian nằm viện trung bình 1 tuần, còn thực hiện bằng phương pháp hóa tắc mạch truyền thống do tác dụng phụ của thuốc nên thời gian nằm viện sẽ phải kéo dài hơn, nguy cơ tổn thương đến các nhu mô gan lành cũng cao hơn.

Tuy nhiên, hiệu quả của phương pháp này còn phụ thuộc vào sự chỉ định phù hợp đối với từng ca bệnh cụ thể; không phải trường hợp nào cũng có thể áp dụng tốt phương pháp điều trị này. Cũng như hóa tắc mạch truyền thống, phương pháp này được chỉ định cho các trường hợp UTBMTBG không còn chỉ định phẫu thuật, khối u gan tăng sinh mạch với chức năng gan còn tương đối khá và không có các chống chỉ định đặc biệt.

Xem thêm: điều trị viêm gan | viêm gan câp tính | tác hại của rượu | đầy bụng khó tiêu

Khối u bị vỡ khi chữa ung thư bằng thuốc nam

chua benh ung thu bằng thuốc nam coi chừng bệnh càng nặng hơn

Bị ung thư vú di căn hạch nách nhưng chị Nguyễn Thị Thiếc (55 tuổi ở Chương Mỹ, Hà Nội) đã không điều trị mà về uống thuốc Nam, hậu quả khối u hạch nách 'khổng lồ' bị vỡ ra...

Nhiều người suy gan thận và di căn do thuốc Nam

Nằm tại khoa chống đau Bệnh viện K, chị Nguyễn Thị Thiếc vật lộn với đau đớn, không thể tự ngồi dậy được. Tay phải không xỏ được vào áo vì khối u khổng lồ thâm đen chiếm cả một vùng nách đang rỉ máu - hoại tử hoàn toàn, tay sưng phù không nhấc nổi...

Chị nghẹn ngào, đầu năm 2012, chị phát hiện ở đầu vú có một cục nhỏ bằng đầu ngón tay, không đau đớn gì. Vì hoàn cảnh gia đình, chồng chết, 4 đứa con, một đứa bị bệnh tâm thần, 2 đứa đang ăn học, một đã có gia đình riêng... nên chị chủ quan, mải làm nuôi con. Đến tháng 8/2012 xuất hiện hạch nách chị đi khám bác sĩ kết luận ung thư và chỉ định truyền hóa chất sau đó phẫu thuật. Nhưng một phần vì không có tiền, một phần lo sợ truyền hóa chất sức yếu, mổ u tiến triển nhanh nên chị đã về nhà ăn chay và nghe theo người quen lên thầy Trung ở Vĩnh Yên uống thuốc Nam. Càng uống thuốc bệnh của chị càng tiến triển nhanh, hạch sưng to và đau đớn chị không thể đi làm được. Ngày 12/1 thì u vỡ, máu chảy ướt mấy cái áo và chị phải nhập viện.

ThS.BS Nguyễn Thị Hương, Khoa Chống đau, Bệnh viện K cho biết, rất nhiều bệnh nhân ung thư vú được chẩn đoán giai đoạn sớm nhưng từ chối phẫu thuật vì sợ đụng dao kéo, ung thư tiến triển nhanh, đến khi nhập viện thì nhiều người không chỉ bị di căn hạch, xương, não, phổi... mà còn bị suy gan, suy thận do tai biến của thuốc Nam.

BS Nguyễn Thị Hương đang thăm khám cho chị Thiếc.

Phát hiện và điều trị sớm khỏi bệnh 90%

GS.TS Nguyễn Bá Đức cảnh báo, ung thư vú là loại ung thư thường gặp nhất và gây tử vong hàng đầu ở phụ nữ nhiều nước nhưng nếu phát hiện sớm, điều trị đúng thì khỏi bệnh tới 90%. Khi phát hiện vú nổi cục, đau, hoặc tiết dịch đầu vú... bệnh nhân không nên lo sợ ung thư. Nguyên nhân thường gặp nhất gây đau, nổi cục ở vú là sự thay đổi xơ nang, hiện tượng này xảy ra với gần 60% phụ nữ ở thời kỳ tiền mãn kinh.

Vì vậy, nếu phát hiện thấy bất thường ở ngực cần đi khám làm xét nghiệm để phân biệt các bệnh thông thường, lành tính của vú và ung thư. Phụ nữ dưới 30 tuổi rất hiếm người bị ung thư vú, còn dưới 25 tuổi thì hầu như không có. Ung thư vú tăng lên khi phụ nữ càng lớn tuổi (35 - 45 tuổi).